Du lịch cửa lò những ngày trời yên biển lặng thì tàu ra khơi phản hồi bao giờ tôm cá cũng đầy ắp khoang. Cá nhiều thì phu phụ , con cái ai cũng bận rộn , nào là đem ra chợ bán , thứ thì luộc để phơi , thứ thì nướng để nhập về các chợ Đô Lương , Thanh Chương , Anh Sơn…
chúng tôi vào nhà ngư gia Mai Văn Hải. Tiếp chuyện chúng tôi trong căn nhà nhỏ bé , chị Nguyễn Thị Bảy , vợ anh Hải bấy chừ đang dở tay đan nốt tấm lưới kịp cho chồng đi biển chiều nay. Câu chuyện của chị Bảy cũng là câu chuyện của bao lăm người đàn bà làng biển Nghi Thuỷ này…
Bao đời nay , dẫu khó nhọc , nhưng ngư gia nơi đầy vẫn gắn bó với biển. Mọi người ở đây đều biết khi trong nhà không còn hạt gạo , đồng bạc , thì chính biển bao dung cho họ cuộc sống. Biển chưa chối từ ai tìm cách sinh sống bao giờ. Bởi thế , những ngư gia làng chài lớn lên đều biết bám biển để mà sinh tồn , tất cả đều nước phụ thuộc vào con cá , đều đợi chờ từ phía biển.
Không chỉ vợ chờ chồng , con chờ cha , mà bà con , làng xóm , người làng xóm , người bán cá… đều chờ. Tất cả đều chờ con cá từ biển về thì mới “lên” được. “ Đang mùa được cá thì phải gấp rút tranh thủ ra khơi để chớp dịp , chứ ngày biển động thì phu phụ , con cái mới quây quần ở nhà thôi” , anh Hải tiếp tục. Đội tàu của anh cứ đi 5 ngày thì lại về một lần , mỗi lần cũng được 2-3 tấn cá. Trừ phí tổn lãi khoảng 3-5 triệu đồng một chuyến. Mỗi lần ra khơi , phụ tử dong thuyền chạy một lèo ra đến Vịnh Bắc Bộ để thả dã kéo cá. Giữa biển trời mênh mông , cả đoàn kéo cá lên , phân loại cá , đập đá , ướp cá , quay máy , lại thả dã , kéo cho mỏi lắm cả tay… Cứ thế liền tay cho đến khi tàu đầy cá mới về.
Khách sạn cửa lò bấy chừ đã quá trưa , tiếng gọi nhau ơi ới của những người mẹ , người vợ , của những ngư gia làng chài hẹn nhau đi biển râm ran. Bước chân của họ nhộn nhịp đi về phía bến. Họ đem theo những thứ cần thiết cho chuyến ra khơi , bắt đầu một chuyến đánh bắt thường ngày như bao đời nay.
Tại cái nơi trên bến dưới thuyền ấy chúng tôi đã được chứng kiến những đoàn thuyền tất tưởi nối đuôi nhau ra khơi. Tàu đi rồi , âu lo đằm sâu trong người ở lại. Chúng tôi nhận ra vẻ đó khi nhìn vào ánh mắt của người vợ , người mẹ dõi theo chồng , theo con. Ngần ấy tháng năm qua , những người đàn bà “lấy chồng nghề biển” nơi đây đều đứng trên bến cá , mắt dõi khơi xa tìm bóng những con thuyền mang theo người người nam họ thương yêu nhất. Giúp đỡ tiền của đến khi dáng người chồng chỉ còn là chấm nhỏ giữa biển khơi , họ mới quay lưng phản hồi nhà. Thế mới biết , cuộc sống của họ , không phức tạp , chất phác , sâu sắc và cũng tràn trề tình làng nghĩa xóm.
Lúc này khoảng hai đến ba giờ chiều , cách đó không xa là bến lạch cạn , nơi dành cho những ngư gia thuyền nhỏ đi lộng trong ngày , sáng đi chiều về. Có lẽ cũng đến vài chục con tàu đang tất tưởi tìm lối vào bến. Cá được tất tưởi đưa lên bờ. Nào mực , nào tôm , cá nục , cá xóc…. Tất cả tươi rói quẫy trong niềm vui hoan hỉ được mùa biển. Giờ đây chúng tôi đã hiểu được vì sao nghề biển lại thu hút bao lăm đời người , đậm đà gắn bó với những thanh âm ồn ào nhộn nhịp , hương vị tanh nồng từ biển.
Biển cho ngư gia làng chài Nghi Thuỷ cuộc sống ấm no nhưng cũng luôn thử thách họ bằng những hiểm nguy rình rập trong những chuyến ra khơi. Xiết bao giọt nước mắt vỡ oà đã rơi trong niềm vui khi gặp lại người thân và cả trong nỗi đau đớn khi người chồng , người cha , người nhà của họ trọn đời ngoài biển cả. Ở làng chài nhỏ bé này đã có nhiều Nhà ở mất đi hai đến ba người vì đi biển. Xiết bao bãi cát đã hằn lên vết tay cào xé của người đi khơi xa vĩnh viễn không về? Và có biết bao nhiêu người đàn bà của xóm chài này đã từng ngồi hoá đá trước biển khơi trong nỗi đau vô cùng của ngày biển động.
Nhưng qua thương đau họ vẫn niềm tin biển bỉ vào cuộc sống. Những cơn bão biển , hay bão giông thế cuộc không thể nào đánh gục được những con người rắn rỏi , vững vàng ấy , chính họ đã làm nên diện mạo của một Nghi Thủy phát triển hôm nay.
Thế nhưng , chúng tôi không muốn gọi Nghi Thủy là một quê biển , hay làng biển , làng chài nữa. Bởi bây giờ nó như một đứa con hoang dại tự bao giờ đã lớn lên , trưởng thành. Ở đây , đã có sự phồn thịnh , năng động của một thành phố biển đang được định hình ngày một rõ nét.
Hôm nay đã có những ngư gia giỏi dang , dám nghĩ , dám làm. Những con tàu công suất lớn được thay dần những con thuyền nhỏ. Từ những con cá bắt được của cái nghề truyền thống tổ tiên để lại , họ đã mang lại cuộc sống ấm no , có của ăn của để cho nhiều nghề khác.
Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi , ông Dương Ngọc Xô , chú tâm UBND phường Nghi Thủy , Cửa Lò cho biết: Trước kia , Nghi Thủy cũng nghèo , như bao làng chài ở mảnh đất miền Trung nắng gió khác. Giúp đỡ tiền của đến thời kỳ canh tân , xóa bỏ bao cấp , hiệp tác xã tập kết , thì Nghi Thủy trong buổi đầu bước ra nền kinh tế thị trường lại không quen , bước đi dò dẫm. Địa ngục dân phản hồi vẫn làm nghề truyền thống đi vây mực , vây cá , vây moi… manh mún nhỏ lẻ , mạnh ai nấy làm. Và nếu cứ tiếp tục như thế , thì ngàn năm Nghi Thủy vẫn mãi là một làng chài bé nhỏ , cuộc sống ngư gia cập kênh theo con sóng.
Tuy nhiên , Nghi Thủy cũng không thể bỏ nghề cá , không thể bỏ biển , mà đó vẫn , đang và sẽ là nghề trọng điểm , là thế mạnh lớn nhất. Chỉ có từ nghề cá mới làm động lực để phát triển được nghề khác , như một đầu máy kéo theo các toa tàu còn lại. Biển được là được tất cả , mất nghề biển là mất tất cả. Nếu vậy , phải bỏ dần cách làm ăn nhỏ lẻ , cập kênh , phập phù… truyền thống , phải vươn khơi , phải đánh bắt xa bờ. Từ nghề cá , mà phát triển ra các nghề dịch vụ - thương mai du lịch. Một người đi biển , sẽ kéo theo nhiều người cần lao khác: bán buôn , chế biến thực phẩm , dịch vụ du lịch… Cho đến bây giờ , Nghi Thủy vẫn không là nơi phát triển du lịch trọng điểm của Cửa Lò , Đại khái không có nhà hàng , khách sạn… Nhưng nơi đây có 2 chợ thuỷ sản lớn nhất của Cửa Lò , và hàng trăm đại lý bán thuỷ sản khác. Bây giờ , Nghi Thủy có khoảng 170 tàu bè , trong đó khoảng 39 tàu lớn , từ 300 – 500 sức ngựa. Sản lượng 6 tháng đầu năm 2014 là 5000 tấn , đạt 88% kế hoạch đề ra trong năm.
hiện tại , quốc gia có chính sách tương trợ vốn cho ngư gia đóng tàu lớn ra khơi. Trong thời kì tới , Nghi Thủy dự trù sẽ làm thí nghiệm 3 tàu vỏ sắt công suất lớn , ông Xô cho biết
Dân Nghi Thủy năng động , nhạy bén , đó là lợi thế và động lực rất lớn cho mảnh đất ngày một phát triển đi lên. “Nhìn các nơi khác , họ cũng có biển , cũng có tài nguyên như thế , vì sao họ làm được mà mình không làm được? vấn đề ở đây là phải đầu tư. Có tàu lớn , nhưng hàng ngũ cần lao cũng phải được nâng cao , ngư gia không chỉ cần kinh nghiệm sóng nước của tổ tiên để lại , mà cần có kỹ thuật mới. Chúng tôi đang mở lớp đào tạo thuyển trưởng , thuyền máy , thuyền viên… Đưa học viên đi tham quan Học hỏi các mô hình khác ở Quỳnh Lưu , Diễn Châu; đào tạo quản lý xa bờ. Có như thế chúng tôi mới vững vàng ra khơi , đảm bảo không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro , sản lượng đánh bắt cũng như chất lượng sản phẩm” , ông Dương Ngọc Xô chia sẻ.
Bên cạnh đó , Nghi Thủy cũng đang coi trọng nâng cấp sửa chữa , mở rộng cảng cá để tiện lợi cho tàu neo đậu khi cập cảng vận tải hàng , tránh trú bão. Quy hoạch chợ thuỷ sản , quản lý du lịch đảo Lan Châu , đảo Song Ngư.
Trong lộ trình du lịch về với Cửa Lò , có làng cổ Mai Bảng , Nghi Thủy đặc điểm cho làng biển truyền thống , có thêm điểm đến là chợ thuỷ sản nhộn nhịp hôm nay , để du khách thăm quan , và mua bán. Với cá , tôm , cua , mực… đang tươi rói; các thực phẩm nước mắm , ruốc chua , ruốc mặn gia truyền có màu đỏ au được làm rất kỳ công lênh từ nguyên liệu gạo hoặc ngô xay nhỏ , ớt tươi chạt nhỏ , mật mía , muối và con tép biển.
Cái làng chài ven
Cửa Lò hoang vu ngày ấy , chỉ mới hơn hai chục năm trôi qua , đã vươn vai đứng dậy như Phù Đổng , để tạo nên vị thế mới cho mình. Ở đây , ngoài vẻ đẹp của một hải phận đậm đà sóng gió , Nghi Thuỷ như một viên ngọc tự nhiên đầy sức hút giữa biển xanh mà từ cổ xưa , vua Bảo Đại đã từng đến vùng đất này và dừng lại chọn làm nơi nghỉ dưỡng.